Danh sách Blog của Tôi

Thứ Tư, 6 tháng 2, 2013

Quy luật giàu nghèo-Quyền chọn lựa và sự thịnh vượng-Di dân và Đa Văn hoá là Yếu tố thịnh vượng-Dân số và sự giàu nghèo-Pháp quyền và thịnh vượng

Quy luật giàu nghèo

2013-01-09

Mở đầu cho năm mới, mục Điễn đàn Kinh tế xin lần lượt trở lại các yếu tố cơ bản giải thích sự giàu nghèo giữa các quốc gia, hoặc của cùng một quốc gia trong nhiều thời kỳ khác nhau.

AFP photo

Một người đàn ông trong một chiếc xe hơi đắt tiền cho tiền một người ăn xin bên đường ở Indonesia, ảnh minh họa.

Có lẽ những yếu tố ấy mới là cơ sở cho một chính sách kinh tế thích hợp. Xin quý vị theo dõi cách Vũ Hoàng nêu vấn đề với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về loạt chương trình này.

Tạo thịnh vượng cho quốc gia

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, mở đầu cho năm mới, xin đề nghị ông trở lại một vấn đề căn bản của các quốc gia là tạo ra của cải hay sự thịnh vượng. Nhiều thính giả theo dõi tiết mục chuyên đề này của chúng ta có thể thắc mắc với câu hỏi đó khi hàng ngày phải phấn đấu để tạo ra của cải cho gia đình sớm thoát khỏi cảnh nghèo khổ và cũng rất thích cách ông đặt vấn đề kinh tế dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Ông nghĩ sao về đề nghị này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi cho rằng đây là đề tài hữu ích nhưng đòi hỏi nhiều chương trình liên tục để giải thích cho tường tận, có khi đến Tết chưa xong! Tôi xin được tạm gọi chung đề tài là "những quy luật của giàu nghèo", trong tinh thần phân tích xem là nhờ đâu mà một quốc gia trở thành thịnh vượng và vì sao lại có nhiều nước chưa thoát khỏi sự nghèo khốn. Nhưng trước hết, mình nên khởi sự bằng cách phơi bày nhiều sự ngộ nhận khá phổ biến.

Vũ Hoàng: Nghĩa là ông muốn bác bỏ một số lý luận mà ông cho là ngộ nhận hoặc hiểu sai?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng thế vì nếu không thấy ra cái sai, ta sẽ khó tìm ra cái đúng và sự lầm lẫn ấy còn có thể dẫn đến những chính sách kinh tế bất lợi cho yêu cầu thịnh vượng.

Đầu tiên, trước khi thế giới tìm ra và tổng hợp các kiến thức để có khoa kinh tế chính trị học, tức là chỉ từ vài trăm năm trở lại, loài người đã có bài toán kinh tế. Đó là con người ta đều muốn có phương tiện sinh hoạt lớn lao hơn khả năng sản xuất của mình. Giải quyết sự khan hiếm ấy là bài toán kinh tế ngàn đời. Khi tìm cách giải quyết, người ta phải tìm hiểu lý do của sự khan hiếm hoặc nguyên nhân của nghèo khó. Nhưng ta khó tìm ra giải pháp nếu cứ đơn giản cho rằng sự nghèo khó của xứ này là do xứ khác gây ra. Xin gọi đó là lý luận hàm hồ của sự bóc lột.

Đến nay, nhiều người còn nói rằng một quốc gia có thể làm giàu bằng cách khai thác xứ khác. Nguyên ủy là từ lập luận hồ đồ của Marx về lợi nhuận và giá trị thặng dư, Lenin khai triển ra quy mô quốc tế lý luận về chủ nghĩa đế quốc theo đó các nước tư bản làm giàu bằng cách bóc lột các nước nghèo. Lý luận này đề ra một tương quan nhân quả nhiều khi sai lạc về sự giàu nghèo. Nôm na là sự nghèo khốn của xứ này là do xứ khác gây ra và ngược lại, sự giàu có của nước này là kết quả của chính sách bần cùng hóa xứ khác.

Tôi xin đi vào chuyện cụ thể của trăm năm trước, khi Lenin viết ra cuốn sách về Chủ nghĩa Đế quốc, y hệt như chuyện của hiện tại, là quả thật rằng các nước tư bản Tây phương có đầu tư ra ngoài, nhưng chủ yếu là đầu tư vào các nước tư bản khác. Còn kim ngạch đầu tư vào các nước nghèo, hay đang phát triển như ta nói bây giờ, chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Vậy mà ngày nay các nước nghèo vẫn đang tìm cách chiêu dụ và thu hút đầu tư của các nước tư bản. Khi còn lấn cấn trong đầu cái lý luận hàm hồ của sự bóc lột thì mình khó nhìn ra bài toán khan hiếm và giải pháp về phát triển.

Vũ Hoàng: Nhưng ta không thể phủ nhận được sự hiện hữu của chủ nghĩa thực dân và sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc từ Âu Châu qua các lục địa khác. Ông trả lời sao về câu hỏi này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Quả thật là các nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hay Anh, Pháp đã trước sau chinh phục nhiều khu vực và có gây ra thảm họa cho nhiều dân tộc khác trên thế giới. Nhưng câu hỏi đầu tiên là vì sao họ chinh phục được các vùng đất rộng lớn hơn lãnh thổ của họ và khuynh đảo được một dân số đông gấp bội? Tức là từ trước đó, các nước thực dân đế quốc đã có sức mạnh kinh tế, quân sự hay kỹ thuật gì đó mà các nước kia không có. Vì sao lại như vậy? Và vì sao nhiều nước tự cô lập và không hề bị chiếm làm thuộc địa mà vẫn cứ nghèo khốn hoặc còn tự làm cho họ nghèo đi? Ta sẽ còn cơ hội nhắc đến những trường hợp cụ thể này.

Yếu tố địa lý

052_01178563-250.jpg
Trẻ em con nhà nghèo và trẻ em con nhà giàu ở Sài Gòn. AFP photo
Vũ Hoàng: Ông hay nói đến địa dư hình thể, kể cả đất đai hay tài nguyên thiên nhiên. Liệu đó có là những yếu tố giải thích sự thịnh vượng của nhiều quốc gia không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng địa dư hình thể có chi phối cách giải quyết bài toán khan hiếm và đem lại lợi thế cho sự thịnh vượng nhờ diện tích khả canh nhiều hay ít, có mạng lưới sông ngòi hay khí hậu thuận tiện hay không, v.v.... Nói chung, các nền văn minh lớn của nhân loại đều xuất phát từ vùng châu thổ của các con sông lớn và khu vực núi non hiểm trở thì khó phát triển và thường đi sau vùng đồng bằng.

Nhưng địa dư không là thực thể bất biến hay trở lực vĩnh viễn. Thác nước kia có thể là một chướng ngại cho đến khi con người nghĩ ra máy xoay nước và dùng sức nước làm ra điện. Nhiều tài nguyên thiên nhiên như quặng mỏ dầu khí có thể là thứ vô dụng trong cả vạn năm, cho đến khi con người khám phá ra công dụng mới.

Nói chung, các nền văn minh lớn của nhân loại đều xuất phát từ vùng châu thổ của các con sông lớn và khu vực núi non hiểm trở thì khó phát triển và thường đi sau vùng đồng bằng. 
Nguyễn-Xuân Nghĩa

Khi ấy ta mới chú ý đến trí tuệ của con người trong bài toán khan hiếm. Vương quốc Á Rập Saudi là nước sản xuất nhiều dầu thô nhất thế giới, lại được trời cho những giếng dầu dễ khai thác, nghĩa là ít tốn kém so với dầu thô của nhiều xứ khác. Nhờ vậy, xứ này có nhiều hoàng thân tỷ phú, nhưng lợi tức bình quân một đầu người chỉ bằng 42% lợi tức của Singapore là một xứ không có dầu và còn phải mua nước của Malaysia. Israel là một quốc gia không được thiên nhiên ưu đãi, chẳng có một giọt dầu nào và thường xuyên bị đe dọa, nhưng người dân vẫn giầu hơn hầu hết các nước Á Rập có dầu ở chung quanh. Nghĩa là ăn thua vẫn ở cách tổ chức của con người. Trong một kỳ khác, chúng ta sẽ nói riêng về địa dư hình thể và không quên trường hợp Nhật Bản, Nam Hàn hay Đài Loan trong khu vực Á châu Thái bình dương.

Vũ Hoàng: Nhắc đến Nhật Bản, ông có thấy rằng xưa kia xứ này là một nước nghèo hay không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Mới chỉ nửa thế kỷ trước thôi, người ta còn xem thường sản phẩm chế tạo tại Nhật là đồ dỏm, rẻ tiền và dễ hư nếu so sánh với các sản phẩm Âu-Mỹ. Ngày nay, xe hơi, máy ảnh và nhiều đồ gia dụng khác của Nhật là tiêu chuẩn cao nhất và dân Nhật cũng thuộc loại giàu nhất. Nhìn trong lịch sử lâu dài thì cho đến thế kỷ 19, Nhật Bản còn là một quốc gia nghèo và khá lạc hậu vì khép cửa với bên ngoài trên một lãnh thổ có ít tài nguyên. Nhưng chỉ một thế kỷ thôi, họ đã thay đổi và thoát ra khỏi cái nghiệp nghèo khốn này.

Nhân chuyện đó, chúng ta cũng thấy ra một sự thật khác. Người ta cứ tưởng các nước nghèo là một khối bất động, chết kẹt trong sự nghèo khổ từ cả trăm năm hoặc còn lâu hơn nữa. Ngày nay, nhiều người còn gọi chung các xứ đó là "Thế giới Thứ ba" hay Đệ tam Thế giới ở giữa khối tư bản và khối cộng sản. Đây là một sự lầm lẫn, vì không thấy ra sự chuyển dịch chậm rãi lâu dài của các quốc gia.

Chẳng hạn như cách đây trăm năm, Argentina ở Nam Mỹ đã là cường quốc giàu mạnh hơn hai đại cường Âu Châu là Đức và Pháp. Thế rồi, với sức người, áo cơm cũng có thể biến thành sỏi đá và ngày nay Argentina trở thành một nước "đang phát triển" còn thua xa nhiều nước Đông Âu mới thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản có hai chục năm. Cũng thế, Singapore hay Nam Hàn đều đã từng là nước nghèo, thuộc loại gọi là Đệ tam Thế giới, ngày nay họ là nước "tân hưng" trong khi Miến Điện lại tụt hậu mất nửa thế kỷ sau khi là một nước giầu của Đông Nam Á.

Làm sao tránh tụt hậu

000_GYI0061844677-250.jpg
Trong một cửa hàng bán hàng giá rẻ tại New York hôm 28/9/2010. AFP photo
Vũ Hoàng: Như ông vừa trình bày thì mình có thề thấy rằng quốc gia nào trên thế giới cũng từng có lúc là nước nghèo, thuộc loại gọi là Thế giới Thứ ba. Nhưng sau đấy họ đã giải quyết được bài toán khan hiếm để hành quốc gia thịnh vượng. Và vì vậy, chúng ta mới tìm hiểu xem họ giải quyết như thế nào và vì sao có nhiều nước thì nghèo vẫn cứ hoàn nghèo và nhiều nước còn tự làm cho mình nghèo đi....

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng thế và ta cũng thấy rằng giải thích sự nghèo khổ chưa hẳn là có ích bằng việc tìm ra giải pháp cho thịnh vượng. Và mình nên tìm hiểu chuyện ấy trong một bối cảnh dài có thể cả trăm năm. Hiểu ra quy luật chung thì sẽ tránh được cái họa tụt hậu.

Nói chung thì xứ nào cũng từng đã có lúc là quốc gia chậm tiến và nghèo khó nhưng lại vươn lên trong khi nhiều quốc gia đã từng dẫn đầu thế giới về sự thịnh vượng, có khi trong cả chục thế kỷ như trường hợp Trung Quốc, rồi sau đó lại lụn bại không vì ách thực dân đế quốc hay bị liệt cường sâu xé. Vì Trung Quốc lụn bại từ trước nên mới bị ngoại bang khuất phục, hậm hực mất trăm năm. Khi nhìn rõ hơn cái tương quan nhân quả về sự giàu nghèo thì mình tránh được việc quy trách cho người khác cái hoạn nạn do chính mình gây ra cho mình.

Vũ Hoàng: Qua từng bước phân tích như vậy, ông làm sáng tỏ được một số điều về lẽ thịnh suy hay giàu nghèo của các quốc gia. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu thêm từng yếu tố của quy luật giàu nghèo. Kết thúc chương trình kỳ này và quy vào trường hợp Việt Nam sau khi suy ngẫm về kinh nghiệm của các nước khác, ông cho rằng yếu tố nào là quan trọng và đáng suy ngẫm nhất?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trên địa cầu hay trong một quốc gia, ta đều thấy là có sự giàu nghèo. Muốn người nghèo hay nước nghèo thoát ra khỏi tình trạng này thì người ta cần rất nhiều điều kiện, từ dân số đến văn hóa, v.v... Nhưng nếu muốn nói đến điều kiện có thể là then chốt nhất, tôi nghĩ đến nền tảng pháp lý, quyền tư hữu và nếp văn hóa của sự tin cậy.

Và nếu những ai tạo ra của cải lại bị nhà nước trấn lột vì luật lệ thiếu nghiêm minh, là chuyện đang xảy ra tại Việt Nam, thì nghèo vẫn hoàn nghèo....
Nguyễn-Xuân Nghĩa

Một người nghèo mà có sáng kiến kinh doanh, dù ban đầu chỉ thuộc loại cò con, cũng khó thoát khỏi kiếp nghèo nếu không huy động được vốn để khai triển sáng kiến. Nhiều người nghèo tại các nước công nghiệp tiên tiến đã tìm ra vốn và kinh doanh thành công để trở thành triệu phú trong khi cũng tạo ra việc làm và sự thịnh vượng cho xã hội. Thế thì vì sao họ làm nổi việc đó?

Họ làm được vì ban đầu đã có tiền từ người giàu. Người giàu có thể yên tâm đưa tiền cho người nghèo mà có khả năng kinh doanh để cùng nhau phân chia lợi nhuận. Thế rồi khi cần mở mang doanh nghiệp và vay tiền loại người giàu không hề quen biết, như qua ngân hàng hay thị trường chứng khoán, thì doanh gia này phải có hồ sơ kế toán và thông tin xác thực về thành tích đã qua.

Sở dĩ những người đó làm được như vậy vì xã hội đã có luật lệ hẳn hoi - nhất là về quyền tư hữu – và được áp dụng nghiêm minh. Nền tảng ấy mới tạo ra niềm tin, hay sự tín cẩn, tín nhiệm. Thiếu nền móng từ pháp lý đến văn hóa ấy thì người ta chỉ còn tin nhau trong phạm vi rất hẹp của bạn hữu và gia đình nên chỉ làm được việc nhỏ, với lợi ích giới hạn về kinh doanh và kinh tế. Và nếu những ai tạo ra của cải lại bị nhà nước trấn lột vì luật lệ thiếu nghiêm minh, là chuyện đang xảy ra tại Việt Nam, thì nghèo vẫn hoàn nghèo....

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về thí dụ thấm thía này, và xin hẹn ông kỳ sau mình sẽ nói tiếp về những điều kiện khiến cho một quốc gia có thể trở thành giàu có thịnh vượng.

Quyền chọn lựa và sự thịnh vượng

2013-02-06

Kết thúc loạt bài phân tích các yếu tố cần thiết cho sự thịnh vượng, kỳ này Diễn đàn Kinh tế sẽ trình bày một yếu tố then chốt là quyền chọn lựa.

AFP photo

Ảnh minh họa một nhà đầu tư trẻ Nam Hàn đang giao dịch qua điện thọai trên sàn chứng khoán.

Quyền chọn lựa

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, như ông đã trình bày từ đầu tháng trước về các yếu tố đóng góp cho sự thịnh vượng của một quốc gia, rằng chúng ta có thể sẽ phải nói đến Tết, Nay đã là cận Tết, nghĩa là mình đã có thể rút tỉa kết luận về loạt bài phân tích này. Tổng kết lại, ông cho rằng đâu là yếu tố quan trọng nhất có thể tạo ra sự phồn thịnh cho người dân?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa là qua bốn chương trình liền, chúng ta đã nói đến nhiều yếu tố khác nhau, bây giờ nếu tổng kết thì tôi nghĩ rằng quyền tự do chọn lựa là động lực then chốt nhất. Tôi xin khởi đầu bằng thí dụ đơn giản để thính giả của chúng ta có thể mường tượng ra điều ấy.

Trước hết là vì nhu cầu giải quyết một sự khan hiếm của mình, ai ai cũng phải chọn lựa. Chẳng hạn như ta không thể vừa đánh cá, vừa cầy ruộng lại vừa xây nhà nên phải chọn một việc gì đó mình cho là ưu tiên rồi giải quyết những nhu cầu còn lại qua việc trao đổi mua bán.

Khi trao đổi mua bán thì ai cũng muốn được tối đa và mất tối thiểu, nên phải tìm nơi cung cấp điều mình thiếu rồi ngã giá với nhau. Khi có nhiều nguồn cung cấp khác nhau thì mình có quyền chọn lựa được mở rộng và chẳng ai lại có cái thế độc quyền để bắt chẹt. Tiến trình chọn lựa hay ngã giá sau khi đó là tìm ra giải pháp có thể thoả mãn cả đôi bên và rốt cuộc thì ta chấp nhận là thà mình được ít hơn một chút còn hơn là mất cơ hội giải quyết một nhu cầu khan hiếm. Khi đã thỏa mãn nhu cầu đó rồi thì mình có điều kiện giải quyết một việc khác. Cả triệu lần thỏa thuận hay thỏa hiệp như vậy sẽ tạo ra sự thịnh vượng chung cho mọi người vì ai ai cũng có lợi.

Vũ Hoàng: Nếu chúng tôi hiểu không lầm thí dụ vừa rồi thì thứ nhất là càng có nhiều người mua bán và thậm chí cạnh tranh với nhau thì ta càng có nhiều chọn lựa, chứ không bị kẹt hoặc ép giá vì tình trạng độc quyền. Thứ hai là trong việc thương thảo hay ngã giá, yếu tố quyết định chính là giá cả mà đôi bên có thể thỏa thuận. Thưa ông, có phải là như vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng đúng như thế. Hãy lấy một thí dụ kế tiếp là ông A và bà B có nhu cầu trao đổi mua bán và ngã giá với nhau rồi tìm ra sự đồng thuận là cái giá phải chăng cho cả hai, để họ còn đi làm việc khác. Nôm na là quan hệ A-B dựa trên một cái giá tối hảo nào đó cho quyền lợi của cả hai, theo lối dân ta gọi là "thuận mua vừa bán".

Bây giờ một người thứ ba lại nhảy vào giữa quan hệ đó, tôi xin gọi là đồng chí X hay nhà nước, và ấn định ra một cái giá khác vì một lý do nào đó. Đồng chí X này áp đặt một cái giá và giới hạn quyền chọn lựa của ông A và bà B nên làm kinh tế nghèo đi vì ít cơ hội chọn lựa hơn. Nói vắn tắt thì việc nhà nước can thiệp có thể cản trở sự thịnh vượng kinh tế vì thu hẹp quyền chọn lựa, hoặc tạo ra tình trạng cạnh tranh thiếu bình đẳng và thậm chí nạn độc quyền.

Vai trò của nhà nước

000_Hkg8245986-250.jpg
Một tiệm bán quần áo ở Hà Nội, ảnh minh họa. AFP
Vũ Hoàng: Nhưng mình vẫn có thể thấy ra vai trò cần thiết của nhà nước trong sinh hoạt kinh tế quốc dân chứ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng thế, nhà nước có một vai trò cực kỳ quan trọng là bảo đảm cho mọi người được quyền bình đẳng trong sự chọn lựa và không ai có thể lấn át người khác. Việc tạo ra sân chơi bình đẳng với một hệ thống pháp quyền công minh, tức là công khai và minh bạch, là một yếu tố của thịnh vượng. Nhà nước là cơ chế cần thiết để bảo vệ sự bình đẳng ấy qua việc áp dụng luật lệ một cách vô tư. Khi nhà nước lại can thiệp vào quan hệ A-B đó với điều kiện khác biệt, như về giá cả chẳng hạn, thì có thể tạo ra sự thiên lệch bất lợi cho kinh tế.

Vũ Hoàng: Ta vẫn có thể nghĩ đến hoàn cảnh của các nước đang phát triển, tức là còn nghèo, nên phải áp dụng một số chính sách phát triển để tập trung nguồn lực của quốc gia vào một số khu vực ưu tiên hầu tạo ra một lực đẩy ban đầu. Những thí dụ mà ai cũng biết là trường hợp Nhật Bản hay Nam Hàn. Chính quyền các nước này cũng có đồng chí X can thiệp vào sinh hoạt kinh tế và yểm trợ các tập đoàn kinh doanh về công nghiệp hay tài chính ngân hàng, nhờ vậy mà họ đạt mức tăng trưởng rất cao trong giai đoạn công nghiệp hoá. Ngày nay, các chính quyền như Trung Quốc hay Việt Nam cũng có thể noi theo tấm gương đó mà xây dựng khu vực kinh tế nhà nước như bộ phận chủ lực cho công cuộc phát triển. Ông trả lời sao về sự phản biện này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết, trong giai đoạn công nghiệp hóa, quốc gia có thể nghiên cứu và áp dụng một số chính sách phát triển, tức là đề ra những ưu tiên cần được yểm trợ và tạo ra một sân chơi có thể là thiếu bình đẳng vì một số khu vực được nâng đỡ. Nhưng kinh nghiệm Nhật Bản và Nam Hàn cho thấy, sau vài thập niên tăng trưởng ngoạn mục thì chính sách ấy dẫn đến cái nạn chúng ta đã từng nói tới là "ỷ thế làm liều" của một số doanh nghiệp được nâng đỡ, với kết quả là bị khủng hoảng kinh tế. Thứ hai, khi nhà nước can thiệp và nâng đỡ như vậy thì còn gây ra bất công và nhất là tệ nạn tham nhũng khi có sự cấu kết giữa chính trị và kinh doanh. Xin hãy nói về Nam Hàn là một xứ mà Việt Nam có thể coi là gương mẫu muốn noi theo.

Vũ Hoàng: Quả thật vậy, thính giả của chúng ta muốn biết về trường hợp Nam Hàn vì ảnh hưởng sâu rộng của xứ này về nhiều mặt trong xã hội Việt Nam, từ kinh tế, kinh doanh, tới điện ảnh hay ca nhạc.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Từ căn bản vào sáu chục năm trước là khi bán đảo Triều Tiên bị phân ranh sau đình chiến 1953, thì Nam Hàn chỉ là xứ nông nghiệp có rất ít tài nguyên khoáng sản và lại thiếu nhiều cơ sở công nghiệp nặng mà Nhật đã xây dựng trước đó tại Bắc Hàn.

Thế rồi từ thập niên 60, Chính quyền Nam Hàn có chính sách tuần tự công nghiệp hóa với các tập đoàn họ gọi là "chaebols", hay tài phiệt, được nhà nước nâng đỡ để thi hành chính sách này dù các cơ sở ấy là của tư nhân chứ không là quốc doanh như tại Trung Quốc và Việt Nam. Nhờ đó, từ 1960 đến 1980, xứ này đạt tốc độ tăng trưởng ngoạn mục là 12%, tức là còn cao hơn 9-10% của Trung Quốc sau này. Và nhờ đó, Nam Hàn đã công nghiệp hoá và thịnh vượng rất nhanh so với xứ Bắc Hàn lụn bại, rồi Nam Hàn trở thành một nước xuất khẩu nền văn hoá kinh doanh tiêu biểu đã tạo ra phép lạ kinh tế Đông Á. Quần chúng thì có thể say mê phim bộ hay nghệ sĩ Đại Hàn, hoặc một tay múa may mà gây chấn động thế giới về phong cách Gangnam, chứ doanh gia thì phục các tập đoàn Nam Hàn đã vượt Nhật Bản và ai để ý tới chuyện quốc tế còn thấy người dân gốc Nam Hàn đang cầm đầu Liên Hiệp Quốc và Ngân hàng Thế giới.

Mối liên hệ chính trị - kinh tế

000_Hkg7748046-250.jpg
Công nhân kết hoa cờ Đảng và cờ nước trước lễ Quốc Khánh 02/9/2012. AFP
Vũ Hoàng: Ông hay nhìn ra nhiều ý nghĩa bất ngờ của thời ự hàng ngày nên nêu lên một số thí dụ đáng cho ra suy ngẫm. Nghĩa là Nam Hàn có thể là tấm gương sáng nhưng không ở chiến lược kinh tế thời xưa mà còn ở nhiều địa hạt khác.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ta nên nhìn lại kinh nghiệm của họ. Thứ nhất là dù bản thân nhà độc tài thời đó là Tổng thống Phác Chính Hy là người liêm khiết và đã công nghiệp hóa xứ sở, chính sách ấy vẫn gây ra tham nhũng và ưu thế của các chaebols Nam Hàn lại dẫn tới khủng hoảng vào năm 1998.

Chính là vụ khủng hoảng mới khiến Nam Hàn giảm thiểu chứ không tăng cường sự can thiệp của nhà nước và sau vụ khủng hoảng, chủ tịch sáng lập tập đoàn Dae Woo hay Đại Vũ bị án tù vì tội tham ô. Kết quả là Nam Hàn cải tổ cơ cấu kinh tế, các tập đoàn tài phiệt cũng thay đổi chiến lược kinh doanh. Trong khi ấy, môi trường quốc tế cũng đã thay đổi theo tinh thần mua bán tự do của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO chứ không cho nhà nước chọn lựa và nâng đỡ thành phần kinh tế này hay khu vực sản xuất khác.

Điều quan trọng nhất mà Việt Nam không nhìn ra là việc Nam Hàn đã cải tổ về chính trị cách nay đúng 20 năm để thành một quốc gia dân chủ hạng nhất thế giới. Nhờ thể chế dân chủ xứ này đã có thể chuyển hướng cải cách và cũng giải trừ được tham nhũng. Một cựu Tổng thống của họ đã tự tử năm 2009 khi bị đàn hặc về tội gia đình nhận tiền hối lộ của tập đoàn Daewoo.

Các trường hợp lãnh tụ bị ra toà hay vào tù như Tổng thống Trần Thủy Biển của Đài Loan hay Gloria Macapagal-Arroyo của Philippines không xảy ra cho đồng chí X của một nước độc tài. Các quốc gia đó đã phát triển mạnh hơn và giàu hơn Việt Nam không chỉ vì áp dụng chiến lược kinh tế đúng đắn dù mỗi nước lại có một chiến lược thích hợp với hoàn cảnh của mình. Họ trở thành một xứ giàu mạnh và văn minh hơn vì có dân chủ và mở rộng quyền chọn lựa cho người dân về kinh tế lẫn chính trị.

Vũ Hoàng: Chúng ta đi tới đoạn kết khi cũng sửa soạn ăn Tết! Thưa ông, lời kết ở đây là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ta trở về quan hệ của ông A và bà B với sự can dự của đồng chí X. Nếu đồng chí X này lại can thiệp theo chiều hướng nâng đỡ giả dụ như bà B vì lý do chính thức là kinh tế thì sự kỳ thị và lệch lạc đã xảy ra với hậu quả là làm cả xã hội nghèo đi. Nhưng tai hại hơn vậy là ai cũng muốn thành bà B để xây dựng quan hệ tốt với đồng chí X, tức là định chế hóa nạn tham nhũng và tư bản thân tộc, rồi dù cho cơ sở của bà B có thể phá sản thì vẫn cứ tồn tại, nhờ tài nguyên của nhà nước. Hậu quả là tham nhũng và bất công làm xứ sở khó phát triển và người dân không thể làm giàu vì bị tước đoạt mất quyền chọn lựa, bản thân còn bị nhà nước làm nghèo đi. Quyền chọn lựa kinh tế vì vậy khởi đi từ quyền chọn lựa chính trị, từ thể chế dân chủ.

Hồi nãy, ta nhắc đến trường hợp Nam Hàn. Dân Việt có thể chẳng kém gì dân Đại Hàn, nhưng lãnh đạo thì quả là thua xa. Người ta cứ nói kinh tế là một khoa học u ám nhưng vào dịp Tết nhất thì mình cũng nên nói đến điều lạc quan và tích cực. Tôi thầm mong và cầu chúc là người Việt sẽ có quyền chọn lựa rộng mở để tìm ra sự thịnh vượng và trước đó, tìm ra con đường cải cách chính trị để có thể chuyển hóa trong hòa bình. Nghĩa là tìm ra một hệ thống lãnh đạo khác.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi và nhân dịp năm mới, mục Diễn đàn Kinh tế xin gửi tới quý thính giả lời chúc an khang và thịnh vượng.

Di dân và Đa Văn hoá là Yếu tố thịnh vượng

2013-01-23

Tiếp tục loạt bài về những yếu tố đóng góp cho sự thịnh vượng của một quốc gia, mục Diễn đàn Kinh tế kỳ này sẽ trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về vai trò của văn hoá.

AFP PHOTO / HOANG DINH Nam

Trung tâm thành phố Hà Nội vào ngày 17 tháng 1 năm 2013.

Vai trò của di dân

Vũ Hoàng: Xin trân trọng kính chào tái ngộ ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, như đã hẹn, ta sẽ tiếp tục trao đổi về các động lực tạo ra sự giàu nghèo của các nước trong nhiều thời kỳ khác nhau. Câu hỏi đầu tiên xin được nêu ra là một thành ngữ gốc Trung Hoa, "phi thương bất phú"- không có thương nghiệp thì không thể làm giàu.

Chúng ta đều biết câu nói này xuất phát từ nền văn hóa Trung Hoa, như mình có thể thấy qua nguyên văn bằng Hán ngữ. Thế nhưng hình như là trong chuyện này lại có một nghịch lý.

Một đàng là lý luận Khổng Nho có tính chất thống trị trong nền văn hóa và chính trị Trung Quốc cứ đề cao người có học đi làm quan, như ta thấy qua bốn thành phần xã hội là "sĩ, nông, công, thương", tức là thương nhân đứng hạt chót. Đằng kia là chữ "phi thương bất phú" và thành tựu kinh doanh đáng kể của Hoa kiều lưu tán tại các nước Đông Nam Á, kể cả Việt Nam. Ông giải thích thế nào về chuyện này?


Một cộng đồng dân tộc trên một khu vực địa dư thường có chung một số động thái do cùng chia sẻ một số giá trị tinh thần mà ta gọi là "văn hoá".

Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nghịch lý ông vừa nêu lên là một chuyện rất thú vị dù là hơi dài nếu ta muốn đi vào nguyên ủy của vấn đề. Tôi xin được tóm gọn như sau. Thời Chiến Quốc từ thế kỷ thứ năm trước Tây lịch ở bên Tầu đã có một giai đoạn đa nguyên với nhiều tư tưởng phong phú, và trong "bách gia chư tử" của họ đã có một phái là "kế hoạch gia" mà ta hiểu nôm na là kinh tế học và nghệ thuật làm giàu. Nhân vật Đào Chu Công tức là Phạm Lãi của nước Việt là một người nổi tiếng của phái đó. Nhưng qua đời Hán từ năm 200 trước Tây lịch thì người ta xoá bỏ  hệ thống tư tưởng đa nguyên, lấy lý luận Khổng Nho là chân lý nhằm bảo vệ quyền lực triều đình với việc đề cao sĩ phu và nông nghiệp mà coi thường thương nghiệp và kỹ thuật. Dù sao, đấy là phần nổi ở trên, chứ quần chúng ở dưới thì vẫn cứ làm ăn buôn bán và khi xiêu dạt qua xứ khác, họ đem theo thói quen rất thực tiễn và cố gắng làm ăn nên mới thành công. Cũng câu hỏi đó mới khiến ta để ý đến văn hoá và vai trò của di dân trong việc tạo ra sự thịnh vượng.

Vũ Hoàng: Ông có thói quen nêu vấn đề rất lạ, và cho rằng văn hóa và di dân có thể tạo ra sự thịnh vượng. Chúng ta sẽ khởi đi từ đó....

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin được lấy một định nghĩa thông tục để khỏi dài dòng về phạm trù "văn hóa". Đó là "các yếu tố tinh thần, dù là bất thành văn, vẫn chi phối cách suy nghĩ và hành xử của một tập thể sống chung trên cùng một lãnh thổ". Nghĩa là một cộng đồng dân tộc trên một khu vực địa dư thường có chung một số động thái do cùng chia sẻ một số giá trị tinh thần mà ta gọi là "văn hoá".

Khi ấy, ta nhớ đến một quy luật có trình bày một kỳ trước, đó là "nói chung, các nền văn minh lớn của nhân loại đều xuất phát từ vùng châu thổ của các con sông lớn và khu vực núi non hiểm trở thì khó phát triển và thường đi sau vùng đồng bằng." Yếu tố quyết định ở đây là sự giao tiếp giữa nhiều thói quen khác biệt mà ta gọi là văn hóa, bên dưới là sự chuyển giao công nghệ.

000_Hkg8121501-250.jpg
Một nhóm du khách nước ngoài đi bộ ở khu phố cổ của Hà Nội vào ngày 21 Tháng 12 năm 2012. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam.
Trên vùng núi non hiểm trở người ta chậm phát triển vì khó giao tiếp với bên ngoài và vẫn giữ nét văn hoá riêng mà không đổi mới. Tại vùng đồng bằng, bên các son sông lớn hoặc biển cả, người ta có nhiều cơ hội tiếp cận và trao đổi với bên ngoài nên dễ tìm ra giải pháp mới cho nhiều bài toán cũ. Và như vậy, tính chất đa văn hoá lẫn tinh thần cởi mở để đón nhận di dân có thể là yếu tố đóng góp cho sự thịnh vượng. Ngược lại, nếu cứ tự đóng kín với thế giới bên ngoài thì người ta có thể chết đói trên một kho vàng do tổ tiên để lại vì không biết cách khai thác.

Vũ Hoàng: Trong có vài câu khá cô đọng, ông nói ra những điều khá phức tạp nên xin đề nghị ông trình bày ra một số thí dụ minh diễn có được không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin khởi đi từ Trung Hoa với bóng rợp văn hoá của họ trong cả ngàn năm làm dân ta lụn bại dần mà không biết. Nhiều người Trung Hoa từ thời Chiến Quốc tức là 25 thế kỷ trước, đã mường tượng rằng trái đất hình tròn. Nhưng văn hoá xứ này lại tin rằng thế giới là mặt phẳng, ở giữa có Trung Quốc là trung tâm của thiên hạ và coi dân khác là man rợ. Cũng vậy, xứ này đã phát minh ra thuốc súng, nhưng văn hoá của họ lấy phát minh này làm pháo bông cho đến khi bị pháo hạm và đại bác Tây phương khuất phục và nay mới bắt đầu Tây phương hóa.

Một thí dụ khác gần gũi hơn với chúng ta là sau năm 1558, khi một đại quan của triều Lê là Nguyễn Hoàng từ Thăng Long vào Thuận Hóa lánh nạn, ông khai sáng ra chín đời Chúa Nguyễn và mở mang lãnh thổ trên một vùng đất mới, có tài nguyên và điều kiện sinh hoạt mới. Vì nội chiến Trịnh-Nguyễn, các Chúa Nguyễn thoát khỏi nếp văn hoá bị Hán hóa ở Đàng Ngoài mà phát triển Đàng Trong theo lối thực tiễn cởi mở hơn, và nhờ đó phát huy tinh thần "bốn bể một nhà" của dân lưu tán. Khi đó, Đàng Trong giao thiệp và buôn bán bình đẳng với mọi sắc dân Âu-Á để trở thành cường quốc kinh tế của cả Đông Nam Á. Khi Gia Long thống nhất đất nước thì lại xây dựng chế độ trên cơ sở Trung Hoa lạc hậu đời Thanh nên chỉ 70 năm sau Chiến thắng Đống Đa năm 1789, nước Nam đã bị Âu Châu khuất phục khi Pháp bắn vào Đà Nẵng năm 1859. Từ mấy thí dụ gần đó, ta có thể suy ra những trường hợp hiện đại và thời sự hơn về kinh tế.

Sự tin cậy trong kinh doanh

Vũ Hoàng: Bước sang chuyện hiện đại thì ông thấy những thí dụ nào là có vẻ tiêu biểu nhất?


Sự khai phá trong tầm nhìn và tinh thần hợp tác phải dẫn đến một luật chơi chung, là cơ sở pháp lý cần thiết để có được sự tin cậy trong kinh doanh.

Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trong một kỳ trước, chúng ta có nói đến xứ Argentina, vào đầu thế kỷ 20 đã là một trong 10 quốc gia giàu mạnh của thế giới. Mình có thể hỏi là ở đâu ra sự giàu mạnh đó tại Nam Mỹ? Thí dụ đầu tiên là di dân gốc Đức đã đem theo kiến thức về canh tác lúa mì khiến xứ này đang từ tình trạng nhập khẩu bột mì trở thành một trong mấy nước xuất khẩu lớn nhất thế giới trên một lãnh thổ đã có sẵn điều kiện thuận lợi cho canh tác. Di dân gốc Anh thì đem theo kỹ thuật và công nghệ hỏa xa qua Ấn, qua Phi và giúp Argentina phát triển hạ tầng vận chuyển và tạo ra sự trù phú. Nhưng rồi chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và ách độc tài của chế độ Juan Peron đã khiến đầu tư và di dân quốc tế tháo chạy khiến xứ này mới nghèo dần và lụn bại.

Suy ngẫm ngược lại thì di dân gốc Âu Châu đã đem theo văn hoá và kiến thức của họ phát triển các vùng đất mới tại Hoa Kỳ, Canada hay Úc Châu nên không mất trăm năm để học lại từ đầu. Và trên vùng đất mới có nhiều tài nguyên mà thổ dân bản địa không biết khai thác, di dân đã mở ra nhiều cơ hội và xây dựng nên những nét văn hóa khác biệt với Âu Châu. Một thí dụ gần gũi khác là tại vùng Thung lũng Điện tử ở miền Bắc California, rất nhiều doanh nghiệp loại nhỏ là do di dân lập ra và thành công mỹ mãn để trở thành những tập đoàn lớn.

Vũ Hoàng: Từ những thí dụ ấy mình có thể rút tỉa được nhiều bài học hữu ích. Theo ông thì những bài học nào là đáng nhớ nhất?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thí dụ về Argentina cũng áp dụng cho nhiều xứ khác tại Trung Nam Mỹ. Điều kiện địa dư, hình thể và khí hậu thì vẫn có sẵn, nhưng các định chế và tổ chức, nghĩa là nếp văn hoá và nền tảng pháp lý lại không khai thác điều kiện tự nhiên này cho đến khi di dân xứ khác tới nơi đã tạo hoàn cảnh cho thịnh vượng.

000_Hkg8127374-250.jpg
Văn Miếu Hà Nội vào ngày 24 tháng 12 năm 2012. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam.
Từ vài thế kỷ gần đây, hiện tượng di dân mở rộng trên địa cầu cho phép nhiều sắc dân và nếp văn hoá giao tiếp với nhau và tìm ra các giải pháp mới mà quê hương cũ hay xã hội tiếp cư mới lại không có trước đó. Chúng ta đều hiểu đa số di dân là người nghèo, thực chất là tha phương cầu thực để kiếm sống, với một bản năng sinh tồn và sức chịu đựng rất cao. Khi được tự do làm ăn, các đức tính ấy đã giúp họ làm giàu và tạo ra sự thịnh vượng trong xã hội tiếp cư. Nếu xã hội tiếp cư lại kỳ thị hoặc ruồng bỏ di dân từ cõi lạ thì xã hội đó để mất thời cơ và khó phát triển.

Bài học ở đây chính là cách mở mang tầm nhìn và có tinh thần hợp tác không kỳ thị, đấy là các yếu tố góp phần cho thịnh vượng. Nhưng sự khai phá trong tầm nhìn và tinh thần hợp tác phải dẫn đến một luật chơi chung, là cơ sở pháp lý cần thiết để có được sự tin cậy trong kinh doanh.

Vũ Hoàng: Chúng ta đi tới phần cuối là bài học cho Việt Nam. Khi nói đến quy luật của giàu nghèo cùng yếu tố di dân và đa văn hóa, người Việt ta có thể học được gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nếu nhớ đến địa dư hình thể và nếp văn hóa bị Hán hóa tại miền Bắc được coi là "ngàn năm văn vật", ta có thể nhìn ra một hiện tượng. Đó là những người thông minh, biến báo hoặc liều lĩnh nhất của miền Bắc đã phát triển và trở thành dân miền Trung rồi người Nam. Trên vùng đất mới, họ thoát khỏi nếp văn hoa sơ cứng của miền Bắc mà giao tiếp và sinh hoạt trong tinh thần tự do và cởi mở hơn để tạo ra sức mạnh kinh tế khá đặc biệt của miền Nam, không phải là sau năm 54 hay 75 của thế kỷ 20 mà ngay từ thời còn là Đàng Trong.

Đàng Trong ngày xưa và miền Nam ngày nay đã đi trước không chỉ nhờ địa dư trù phú hơn mà là nhờ cái đầu thông thoáng hơn và nhất là nhờ không có tinh thần kỳ thị, sợ sệt hoặc mặc cảm. Người dân nơi đây làm ăn và giao tiếp với thế giới một cách dung dị và bình đẳng nên tìm ra các giải pháp mới mà miền Bắc khó thể có. Khi lãnh đạo ngày nay lại áp đặt khuôn khổ văn hoá chính trị độc tôn, về bản chất vẫn là tự Hán hóa theo màu sắc Trung Quốc cộng sản, thì chế độ làm xứ sở nghèo đi, nghĩa là lại kéo đất nước về tình trạng lạc hậu cũ.

Một thí dụ hiện đại và thời sự không kém là cách giao tiếp với người Việt tại hải ngoại, là thành phần bắt buộc phải học hỏi cái mới của thiên hạ để tồn tại và thành công trong xã hội tiếp cư. Cộng đồng người Việt này không chỉ đem tiền về mà còn mang theo kiến thức và cách suy nghĩ của thế giới khác để có thể đóng góp cho sự thịnh vượng của quê hương cũ. Chế độ sẵn sàng nhận tiền, thậm chí còn làm tiền họ, nhưng nghi kỵ những tư tưởng mới mà họ gọi là phản động hay "có âm mưu lật đổ". Đâm ra di dân Việt Nam có thể làm giàu cho xứ khác mà không làm giàu cho nước mình nếu không chui qua hai chân của lãnh đạo và nộp tiền cho kẻ cầm quyền.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi lý thú này.

Dân số và sự giàu nghèo

2013-01-16

Tiếp tục loạt bài về các yếu tố phát triển một quốc gia, chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa nói đến dân số hay sức người.

RFA photo

Pano tuyên truyền hạn chế dân số ở Hà Nội

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Tiếp theo chương trình kỳ trước, về những quy luật của sự giàu nghèo tại các quốc gia trong lịch sử và ngay trong hiện tại, xin đề nghị ông   trình bày một yếu tố mà ngày nay nhiều người đang nói tới, là dân số. Người ta nói tới là vì hiện tượng lão hóa dân số trong các nước công nghiệp hoá và vì sức đua tranh hiện nay của hai nền kinh tế đang phát triển có dân số đông nhất địa cầu, là Trung Quốc và Ấn Độ.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Như thường lệ, tôi sẽ nói về bối cảnh trước và trước hết xin giải độc ở một số ngộ nhận tai hại. Trong một giai đoạn quá lâu, người ta cứ cho rằng các nước nghèo sở dĩ gặp phải phận nghèo vì dân số quá đông cho nên có một cái bánh mà phải chia cho quá nhiều người thì ai cũng phải nhận một phần nhỏ hơn. Đây là một sai lầm về lý luận kinh tế và còn dẫn đến tinh thần giành giựt miếng ăn mà không nhìn ra cách sản xuất một cái bánh to hơn.

Người ta sở dĩ sai lầm như vậy vì từ mấy trăm năm nay, từ các nước kỹ nghệ hoá đã xuất hiện lời báo động về nạn "nhân mãn", nói nôm na là "quá đông người". Ta nhớ rằng mục sư Malthus là kinh tế gia người Anh đã cảnh báo từ thế kỷ 18 rằng nếu không có biện pháp ngăn ngừa thì dân số nhân loại gia tăng theo cấp số nhân sẽ vượt quá phương tiện sinh hoạt chỉ gia tăng theo cấp số cộng và thế giới sẽ khủng hoảng. Sau này, ta thấy cái nhìn bi quan ấy là không đúng.

Vũ Hoàng: Thưa ông, có thể là không đúng trong các nước tư bản công nghiệp hóa nhờ cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật với nhiều ứng dụng trong sản xuất kinh tế, chứ tại các nước nghèo thì chúng ta có thấy sự bùng phát dân số nhanh hơn sản lượng kinh tế chứ? Ông giải thích thế nào về chuyện này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa là trong một giai đoạn nhất định thì chuyện ấy có thể đã xảy ra nên mới dẫn đến lý luận sai lạc về nạn nhân mãn. Một cách giản dị cho dễ nhớ về một thí dụ tiêu biểu thì người ta cho rằng liều thuốc kháng sinh trị giá mấy đồng bạc có thể cứu được mạng sống của một người nghèo trong một xứ gọi là chậm tiến, nhưng nếu phải nuôi người đó trong cả đời thì xứ này sẽ không có đủ phương tiện, vì thế mới báo động về nạn nhân mãn và đề cao việc giới hạn đà gia tăng dân số tại các nước nghèo.

Sự thật nó lại rắc rối hơn vậy và tôi cho rằng đây mới là một lý luận chậm tiến, lạc hậu, vì người ta lầm lẫn về tương quan nhân quả của sự giàu nghèo. Cũng vì vậy mà mình mới phải có loạt bài cơ bản này. Câu chuyện còn rắc rối hơn khi nhiều nước nghèo lại bị mê hoặc bởi lý luận Mác-xít nên là nạn nhân của cả Malthus lẫn Marx và Lenin mà không nhìn ra sự thật.

Vũ Hoàng: Ông hay có lối nói ví von để gợi ý tò mò. Thưa ông, thế nào là nạn nhân của cả Malthus lẫn Marx và Lenin?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Xuất phát từ lý luận tiêu cực của Malthus, người ta cho rằng các nước đang phát triển, thuộc Đệ tam Thế giới hay Thế giới Thứ ba, sở dĩ nghèo đi là vì nạn nhân mãn nên nghĩ đến việc kiểm soát dân số hay kế hoạch hóa gia đình. Thế rồi, nhiều người theo lý luận Mác-Lenin lại cho rằng các quốc gia ấy sở dĩ gặp cảnh nghèo khó là vì bị tư bản bóc lột chứ không vì dân số quá đông. Họ đả phá lập luận bi quan của Matlhus và đề cao lý luận lạc quan của Marx về cuộc cách mạng để giành lấy phần hơn của một cái bánh vẫn có kích thước như cũ mà không nhìn đến giải pháp phát triển thực sự. Bây giờ ta trở về sự sai lầm về "nhân mãn".

Sự sai lầm về "nhân mãn"

Dan-so_3-250.jpg
Giao thông trên đường phố Hà Nội. RFA photo
Vũ Hoàng: Ông cho rằng khái niệm "nhân mãn" này là một sự sai lầm?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Không những thiếu chính xác vì không phản ảnh thực tế mà còn có thể dẫn đến liều thuốc đổ bệnh và làm cho lãnh đạo các nước nghèo lấy quyết định sai lầm.

Trước hết, thế nào là "nhân mãn" hay "overpopulation", nói theo Anh ngữ? Là quốc gia có dân số đông hơn khả năng cung ứng của địa lý hay thiên nhiên chăng? Thí dụ như nếu tính theo dân số trên diện tích đất đai chẳng hạn thì ta có "mật độ dân số" là số bình quân của người dân trên một cây số vuông. Liệu mật độ quá cao có thể giải thích vì sao quốc gia ấy nghèo hay chăng?

Xét theo tiêu chuẩn ấy, Việt Nam có 90 triệu dân trên 330 ngàn cây số vuông thì có mật độ là 265 người cho một cây số vuông. So với mật độ của Đài Loan là 642 người, của Nam Hàn là 490 người thì Việt Nam chưa bị hiện tượng nhân mãn và đáng lý phải giàu hơn chứ? Sự thật lại trái ngược như ai cũng có thể thấy. Nếu có tính cho tinh vi hơn, như là xem trên diện tích chung đó có bao nhiêu cây số vuông là khả canh, tức là có thể canh tác nhờ điều kiện địa dư hoặc kỹ thuật nông nghiệp, hoặc ở bên dưới còn có những tài nguyên thiên nhiên nào có thể khai thác thì vấn đề vẫn y như vậy. Việt Nam có điều kiện địa dư và khoáng sản cao hơn mà vẫn nghèo hơn. Lý do của sự giàu nghèo nó phải nằm ở chỗ khác, thí dụ khả năng khai thác tài nguyên thiên nhiên nằm dưới lòng đất, nghĩa là ở cái đầu của con người.

Vấn đề của Việt Nam không là dân số mà là dân trí và trình độ của lãnh đạo.
Nguyễn-Xuân Nghĩa

Vũ Hoàng: Chưa kể là nếu một quốc gia có dân cư quá thưa thớt thì việc giao lưu buôn bán chưa chắc đã có lợi bằng một xứ có mật độ dân số cao hơn và tập trung hơn. Có phải thế không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa ông đúng như vậy. Các nước Châu Phi trong vùng sa mạc Sahara có khi chẳng bị nạn nhân mãn như Đài Loan hay Nhật Bản mà vẫn nghèo là vì lý do khác. Kỳ trước, ta nhắc đến trường hợp Argentina tại Nam Mỹ. Xứ này giàu tài nguyên đủ loại, không quá đông dân và bước vào thế kỷ 20 thì là một trong 10 nước giàu nhất thế giới, hơn hẳn Đức, Pháp mà nay họ bị tụt hậu và nghèo đi thì chẳng phải vì bị nạn nhân mãn mà vì sai lầm của lãnh đạo.

Lý luận về nhân mãn, là vì quá đông dân mà quốc gia nghèo đi, không giải thích được tương quan nhân quả về sự giàu nghèo. Khả năng khai thác tài nguyên có sẵn từ cả vạn năm ở nơi đó, như là thác nước hay giếng dầu, cũng là một biểu hiện khác của sự giàu có và đưa bài toán dân số vào đó chẳng giải quyết được vấn đề mà còn mình có cái nhìn lệch lạc về chính sách kinh tế.

Vũ Hoàng: Chúng ta trở lại trường hợp của Trung Quốc và Ấn Độ, hai quốc gia đông dân nhất thế giới hiện nay. Ông giải thích thế nào về yếu tố dân số trong sự phát triển của hai xứ này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trung Quốc đang là cường quốc kinh tế và lò chế biến của thế giới nhờ dân số rất cao là một tỷ 350 triệu dân với mật độ chỉ có chừng 140 người trên một cây số vuông. Sở dĩ như vậy là vì xứ này cải cách kinh tế từ 30 năm qua chứ không còn mù quáng theo chính sách bế quan toả cảng và chế độ tập trung quản lý của quá khứ. Ấn Độ đi sau, kém 100 triệu dân và có mật độ cao gấp bội là 370 người, và mới chỉ cải cách từ hơn 20 năm thôi.

Nhưng lãnh đạo Trung Quốc đã sợ nạn nhân mãn mà kế hoạch hóa gia đình với chính sách mỗi hộ một con áp dụng từ năm 1978. Ngày nay, họ bắt đầu thấy ra hậu quả là dân số chậm tăng, bị lão hóa và mất sức cạnh tranh. Trong khi ấy, dù đông dân và có mật độ cao hơn, Ấn Độ lại theo hướng khác và ngày nay có dân số trẻ hơn, và nhờ vậy sẽ có ngày bắt kịp sản lượng Trung Quốc. Vì vậy, quy luật ở đây không là dân số hay cái lượng mà là cái phẩm, là khả năng đóng góp của mỗi người vào sự thịnh vượng chung của cả cộng đồng.

Trường hợp Việt Nam

Hoc-sinh_1-250.jpg
Dân số trẻ ở Việt Nam, ảnh minh họa. RFA photo
Vũ Hoàng: Qua phần cuối, ta nói về trường hợp Việt Nam. Quốc gia này cũng có một dân số khá đông và phải nói là khá trẻ sau mấy chục năm chiến tranh liên tục. Liệu dân số hay nhân khẩu có là một vấn đề trong bài toán giàu nghèo của Việt Nam hay không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi còn nhớ 20 năm trước có lãnh tụ Đông Nam Á nhận xét là nếu họ có lãnh thổ như Việt Nam thì đã nuôi nổi 200 triệu dân. Bản thân tôi còn thấy nhiều giới chức tại Đài Loan mở tấm bản đồ xứ mình giải thích rằng họ có thể phát triển khu vực này hay ngành nghề nọ, như Pháp nói về Đông Dương ngày xưa vậy! Đau lòng lắm khi thấy sau đó họ thực hiện các dự án như đã trù hoạch từ trước.... Vấn đề của Việt Nam không là dân số mà là dân trí và trình độ của lãnh đạo.

Vũ Hoàng: Xin ông giải thích cho điều ông vừa phát biểu.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ lãnh đạo một nước không thể chủ quan duy ý chí mà quyết định về dân số hay tỷ lệ sinh nở cao thấp của người dân. Đây là yếu tố văn hóa và xã hội với hậu quả lặng lẽ, rất chậm và rất mạnh mà mình chỉ thấy trong trường kỳ, nếu có viễn kiến.

Khi hiểu ra điều ấy thì người ta phải thấy rằng mỗi công dân sinh ra đời có thể là một miệng ăn nhưng sẽ là đôi tay làm và được hướng dẫn bằng cái đầu, bằng trí tuệ. Nếu thực tình tin vào khả năng tiến hóa của con người thì nên lạc quan nghĩ đến khả năng đóng góp và giải quyết bài toán kinh tế của công dân hơn là bi quan cho rằng mỗi người sinh ra sẽ là một của nợ, một gánh nặng.

Từ đó, thì lãnh đạo phải tạo điều kiện mở mang dân trí và bản thân phải nâng cao trình độ quản lý, tức là phải ý thức được những giới hạn của mình, là chuyện không hề có tại Việt Nam.

Một cách cụ thể thì họ phải xây dựng hạ tầng yểm trợ người dân trong công cuộc phát triển. Hạ tầng đó gồm có nền tảng pháp quyền, là luật lệ thông thoáng minh bạch cho kinh doanh sản xuất như ta đã nói kỳ trước.

Hạ tầng đó cũng là cơ sở khai thác tài nguyên và chuyên chở để giải quyết bài toán khan hiếm và phân phối tại những nơi xa xôi nhất. Quan trọng hơn cả và nói về dân trí hay khả năng sản xuất của một dân số rất đông và trẻ, ta nên nghĩ đến giáo dục và đào tạo.

Khi lãnh đạo còn bắt giam những người trẻ vì sự khát khao của họ thì đấy không còn là vấn đề dân trí mà là chuyện "quan trí" - hay lòng ái quốc không hề có của những kẻ đang cầm quyền.
Nguyễn-Xuân Nghĩa

Vũ Hoàng: Đó là câu kết luận, thưa ông, giáo dục và đào tạo dân số của Việt Nam có vấn đề gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nếu sự giàu có hay thịnh suy của xứ sở nằm trong cái đầu người dân hơn chỉ là cái miệng đòi ăn thì việc giáo dục từng người từ cấp trung tiểu học phải là nhiệm vụ ưu tiên và lâu dài của chính quyền. Nôm na là phải có nền giáo dục miễn phí cho mọi người trong mươi mười hai năm đầu để có nền tảng dân trí tối thiểu và sự bình đẳng cho toàn dân.

Sau bậc trung học thì hệ thống giáo dục và đào tạo tay nghề hay chuyên môn phải được mở ra cho tư nhân tham gia vì họ ý thức được yêu cầu của thự tế, của thị trường. Tức là phải tư nhân hóa, hay "xã hội hóa" nói theo người Hà Nội bây giờ. Việt Nam lại làm ngược với các nước Đông Á nghèo hơn mà có trình độ phát triển cao hơn.

Đó là thả nổi giáo dục trung tiểu học cho tư nhân khai thác, tức là nhà nước phủi tay với đại đa số con trẻ và tạo ra một rào cản bất công vì không trợ cấp học phí. Sau đó, nhà nước lại còn kiểm soát hệ thống giáo dục ở cấp cao đẳng và đại học vì muốn bảo vệ tư tưởng của chế độ nên mới gây ra khủng hoảng về đào tạo trong khi cả một thế hệ năng động đang khát khao học hỏi kiến thức mới lạ của thế giới văn minh bên ngoài.

Khi lãnh đạo còn bắt giam những người trẻ vì sự khát khao của họ thì đấy không còn là vấn đề dân trí mà là chuyện "quan trí" - hay lòng ái quốc không hề có của những kẻ đang cầm quyền.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi thật hào hứng này.

Pháp quyền và thịnh vượng

2013-01-30

Qua ba chương trình liên tiếp, mục Diễn đàn Kinh tế đã tìm hiểu vì sao các nước trên thế giới từng có lúc gặp cảnh nghèo khổ rồi phát triển mạnh về kinh tế, mà cũng có lúc từ sự phồn thịnh lại tụt vào tình trạng nghèo đói.

AFP photo

Tòa nhà Empire State, New York. Ảnh minh họa.

Vũ Hoàng đi vào phần kết với chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa, tư vấn kinh tế của đài Á châu Tự do, về những quy luật của sự giàu nghèo.

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Khởi đi từ chương trình đầu tiên của năm 2013, khi đề cập về quy luật của sự giàu nghèo giữa các quốc gia, chúng ta đã lần lượt tìm hiểu nhiều khía cạnh khác biệt về sự thịnh vượng, nào là địa dư hình thể và tài nguyên thiên nhiên, nào là dân số rồi dân trí, và cả văn hóa lẫn di dân, v.v....

Qua các chương trình này, chúng tôi nghiệm thấy một số yếu tố đáng chú ý là cách đo đếm về thống kê để so sánh sự giàu nghèo của các nước qua nhiều thời kỳ khác nhau, rồi có một số quốc gia tương đối khá giàu rồi lại bị tụt hậu trong nhiều thế kỷ, như trường hợp Trung Quốc. Có quốc gia như Nhật Bản thật ra còn nghèo và ít tài nguyên mà lại vươn lên rất nhanh thành một nền kinh tế thịnh vượng và tiên tiến. Vì sao lại như vậy?

Thưa ông, khi kiểm lại thì ta thấy quốc gia nào trên mặt địa cầu đều đã từng là một nước nghèo, chẳng khác gì các nước mà ngày nay ta gọi là chậm tiến hay chưa phát triển, thế rồi họ lại thành trù phú phồn thịnh. Như vậy, vấn đề đáng chú ý và tìm hiểu ở đây không phải là sự nghèo khốn mà là sự thịnh vượng. Ta sẽ đi vào phần kết để tìm ra cái gì đã tạo ra sự thịnh vượng đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Vì đây là một đề tài bao quát nên ta sẽ tập trung dần vào các yếu tố then chốt như khi tìm một cái đòn bẩy rồi suy tính về điểm tựa và điểm động để hiểu ra quy luật vận hành của sự phồn thịnh. Tôi xin tạm lấy một thời điểm làm cơ sở suy tư vì có thể đánh dấu thời kỳ sau này ta gọi là Hiện đại. Đó là năm 1789, khi Pháp và Mỹ có cuộc cách mạng làm thay đổi vận mệnh quốc gia. Đó cũng là năm của chiến thắng Đống Đa khi Quang Trung Hoàng đế đại thắng trong có năm ngày một lực lượng xâm lăng đông đảo gấp bội của nhà Mãn Thanh.

Chiến thắng Đống Đa năm 1789 là hình thái chiến tranh cổ điển giữa hai nước và có nhiều nguyên nhân sâu xa dù Việt Nam khi đó chưa thống nhất. Trước đấy, vào thời nội chiến Trịnh Nguyễn rồi giữa nhà Nguyễn với Tây Sơn, Việt Nam đã tiếp xúc với các nước Tây phương và nói chung thì chẳng thua kém gì nhiều. Nhưng so với Âu Châu Việt Nam lại tụt hậu sau khi thống nhất nên đúng 70 năm sau trận Đống Đa thì không cưỡng nổi sức ép của Pháp khi họ tấn công Việt Nam và bắn đại bác vào Đà Nẵng năm 1859. Cái gì đã xảy ra là điều ta nên tìm hiểu...

Năm 1789 cũng là khi nền quân chủ Pháp bị khủng hoảng về nhiều mặt. Cái nhân có thể là tôn giáo hay chính trị, nhưng cái duyên, hay yếu tố châm ngòi cho một chuỗi biến động sau đó, lại là kinh tế khi công khố kiệt quệ nên triều đình phải triệu tập hội nghị có sự hiện diện của một đẳng cấp mới, Đệ tam Đẳng cấp, là đại diện cho sức mạnh kinh tế và thực tế tài trợ cho công cuộc phát triển quốc gia. Chính là hội nghị này mới làm tan rã chế độ quân chủ và mở ra cuộc cách mạng. Bảy chục năm sau, nước Pháp bị kiệt quệ ấy đã khuất phục được nước ta.

Nói ra thì kỳ chứ cuộc Cách mạng Độc lập của Mỹ khởi đi từ một chuyện nhỏ mà có ý nghĩa và hậu quả lớn lao. Chuyện nhỏ vì chỉ là vấn đề thuế khóa của các thuộc địa Anh. Mà hậu quả lớn lao là khi đã đóng thuế, tức là góp phần xây dựng quốc gia, thì người ta có quyền tham gia vào tiến trình quyết định về chính trị, nghĩa là đổi lại luật chơi và xây dựng nền tảng pháp chế khác.

Chuyện Việt Nam

000_Hkg8093802-250.jpg
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng (P) và Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh tham dự phiên khai mạc cuộc họp Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam tại Hà Nội vào ngày 10 tháng 12 năm 2012. AFP photo
Vũ Hoàng: Ông hay có lối trình bày lung khởi về bối cảnh rồi tập trung vào chuyện then chốt nhất. Trong ba thí dụ vừa nhắc lại cho thính giả, ông nhấn mạnh đến cái quyền được đại diện để tham gia vào tiến trình quyết định và từ đó xây dựng nền tảng pháp chế khác. Đấy là tiến trình mà sau này chúng ta gọi là dân chủ. Nhưng trường hợp của Việt Nam thì sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ngày nay, chúng ta đều có thể hiểu rằng kinh tế chính là sự chọn lựa. Mà cái quyền chọn lựa giải pháp có lợi nhất cũng là một động lực của thịnh vượng và phát triển.

Đàng Trong của nước Nam trong thời Nội chiến Nam Bắc là nơi mà người ta đã có quyền tự do tương đối trong sự chọn lựa nên thật sự đã trở thành một nước thịnh vượng của Đông Nam Á. Nhưng khi nước Nam thống nhất từ thời Gia Long thì ta lại trở về trật tự cũ trên cả nước, lại theo mẫu mực tù túng lạc hậu của nhà Thanh, nên triều đình quyết định tất cả trong sự hỗn loạn và bất mãn chung của xã hội ở dưới, để rồi xứ sở kiệt quệ dần cho đến khi bị nước Pháp khuất phục. Kỹ thuật chiến tranh, hay đại bác và pháo hạm không giải thích được tất cả. Chính là sự lạc hậu tù túng mới khiến xứ sở không thể canh tân và nâng cao được dân trí và mở ra nhiều chọn lựa khác.

Khi kiểm lại chuyện Âu-Mỹ-Á từ thời Hiện đại, sau khi nhớ đến sự thăng trầm thịnh suy của các nước, ta thấy ra một yếu tố quyết định then chốt nhất trong tiến trình làm cho quốc gia trở thành thịnh vượng. Đó là nền tảng pháp lý hay luật lệ pháp chế.

Vũ Hoàng: Chúng ta tiến dần vào điểm then chốt mà ông gọi là pháp chế. Thưa ông, nó thể hiện như thế nào trong thực tế kinh tế?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chiến tranh hay loạn lạc hoặc tình trạng vô luật pháp tại vùng núi non hiểm trở là những trở ngại cho sinh hoạt kinh tế. Cho nên tối thiểu thì kinh tế cần đến sự ổn định và một nền tảng pháp quyền chung cho mọi người ở mọi nơi mà không quá tốn kém khi áp dụng.

Các chế độ độc tài có thể bảo đảm được sự ổn định ấy bằng một hệ thống luật lệ hà khắc và một bộ máy cưỡng hành to lớn cồng kềnh. Liên bang Xô viết đã có sự ổn định tốn kém này trên một lãnh thổ có nhiều tài nguyên, cho nên nếu so sánh với thời đại của các Sa hoàng của họ, thì nước Nga có thể giàu hơn trước. Nhưng so với Âu Châu thì vẫn là một xứ nghèo đói và 70 năm sau thì kinh tế tự sụp đổ dưới sức nặng của hệ thống kiểm soát và bộ máy sản xuất kiệt quệ vì chế độ tập trung quản lý, tức là một chế độ triệt tiêu cái quyền chọn lựa kinh tế của người dân.

Chính là sự lạc hậu tù túng mới khiến xứ sở không thể canh tân và nâng cao được dân trí và mở ra nhiều chọn lựa khác.
Ông Nguyễn-Xuân Nghĩa

Vũ Hoàng: Cứ như vậy thì ta tiến dần đến trường hợp của Trung Quốc và Việt Nam khi nói đến yêu cầu ổn định bằng luật lệ và yêu cầu phát triển bằng chế độ pháp quyền. Thưa ông, có phải là kinh tế hai xứ này đã thịnh vượng hơn trước là nhờ có hệ thống luật lệ thông thoáng hơn chăng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng hai quốc gia này có thịnh vượng hơn khi so với chính mình trong quá khứ. Chứ so với các nước khác thì vẫn còn rất nghèo mà lại không có tương lai vì chính hệ thống pháp quyền của họ. Tôi xin được lần lượt giải thích.

Chúng ta đều biết kinh tế chỉ tăng trưởng và tạo ra của cải khi có sự ổn định, không bị chiến tranh. Nhưng hệ thống luật lệ và chế độ pháp quyền của hai xứ ấy có thể giúp người dân khỏi chết đói chứ không thể làm quốc gia phú cường được vì bản chất thiên lệch của nó. Chế độ pháp quyền này có mục tiêu ưu tiên là đảm bảo quyền lực đảng hơn là bảo vệ pháp quyền nhà nước, nôm na là đảng vẫn cao hơn nhà nước, như được ghi trong hiến pháp lạc hậu của họ.

Thuần về kinh tế thì hậu quả của chế độ pháp quyền có kỳ thị đó là những gì? Trước hết, nó gây tốn kém vì nhiều lãng phí trong chọn lựa, tức là phải tốn nhiều công sức hơn xứ khác để tạo thêm một sản phẩm. Mà đằng sau những thống kê về sản lượng hay lợi tức bình quân thì tốn sức của ai và để cho ai hưởng? Câu hỏi đó cho thấy là ngoài sự tốn kém hay phản kinh tế lại còn có sự bất công vì đào sâu khoảng cách giàu nghèo trong sự tăng trưởng. Vừa rồi, chính lãnh đạo Trung Quốc đã xác nhận chuyện bất công này khi công bố chỉ số Gini, là khác biệt đào sâu giữa các nhóm ngũ phân hay 20% giàu nhất và nghèo nhất trong xã hội.

Thứ ba là chế độ pháp quyền này dung dưỡng nạn tham nhũng vì tạo ra cơ hội trục lợi bất chính của những kẻ nằm trong, hoặc có quan hệ với, hệ thống quyết định kinh tế. Tham nhũng cũng là một biểu hiện của bất công vì không có tiền đút lót là không có cơ hội làm giàu, nên cơ hội làm giàu chỉ dành cho một thiểu số. Một quốc gia không thể phát triển và người dân không có được sự thịnh vượng khi mà chế độ pháp quyền lệch lạc lại thực tế định chế hóa hành vi tham nhũng. Mà chưa hết....

Nạn tham nhũng

Vũ Hoàng: Ông vừa đưa ra một số phê phán nghiêm khắc mà chính xác về những nhược điểm nay đã được công khai hóa về chế độ pháp quyền của Trung Quốc và Việt Nam. Như sự tốn kém rất nhiều công sức đầu tư để tạo thêm một sản phẩm qua hệ số người ta gọi là ICOR, hoặc những bất công xã hội và sự xuất hiện của một tầng lớp tư bản đỏ các đại gia hay Thái tử đảng sống phè phỡn trên sự lầm than còn quá lớn của xã hội. Hoặc như nạn tham nhũng mà ông gọi là được định chế hóa. Vậy mà ông còn nói là chưa hết! Chế độ này còn nhược điểm nào khác?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng sự thiên lệch và mờ ám của nó còn tác động vào chính sách kinh tế để bảo vệ quyền lợi cho một khu vực hay thành phần kinh tế và mặc nhiên gây thiệt hại cho đa số còn lại. Quốc gia không thể thịnh vượng, người dân không thể giàu có và chế độ này không có tương lai chính là vì lý do đó.

Các tập đoàn kinh tế nhà nước tại Trung Quốc và Việt Nam là những thí dụ mà ai cũng biết. Chế độ kiểm soát ngoại hối của Trung Quốc hoặc kế hoạch cấp cứu khu vực bất động sản bị nạn bong bóng đầu cơ tại Việt Nam là loại thí dụ khác. Cứu những ai và bỏ những ai và với tài nguyên công quỹ bị mắc nợ đến chừng nào là loại vấn đề về chính sách. Đằng sau các thống kê mờ ám, nó cho thấy tình trạng thiếu bình đẳng và minh bạch của chế độ pháp quyền lệch lạc.

Tình trạng cướp đất hay bồi thường không thỏa đáng khi giải phóng mặt bằng cho cái gọi là công nghiệp hóa và đô thị hóa là biểu hiện khó chấp nhận được của cả hai chế độ tự xưng là "xã hội chủ nghĩa". 
Ông Nguyễn-Xuân Nghĩa

Căn bản nhất, chế độ ấy vẫn chưa xác định và bảo vệ quyền tư hữu, cụ thể là quyền tư hữu một phương tiện sản xuất cần thiết là đất đai. Tình trạng cướp đất hay bồi thường không thỏa đáng khi giải phóng mặt bằng cho cái gọi là công nghiệp hóa và đô thị hóa là biểu hiện khó chấp nhận được của cả hai chế độ tự xưng là "xã hội chủ nghĩa".

Thực chất thì đấy là chủ nghĩa tư bản hoang dại và vô pháp trong khi các nước theo tư bản chủ nghĩa đều trước tiên xây dựng pháp quyền nhà nước và bảo vệ quyền tư hữu để mọi người có thể kinh doanh và làm giàu nhờ sự hợp tác trong tinh thần tin cậy lẫn nhau. Nếu chỉ tin nhau trong một phạm vi rất nhỏ hẹp của gia đình và thân tộc thì làm sao có thể thịnh vượng khi cần làm ăn với thế giới bên ngoài? Có thể là kỳ sau mình sẽ kết thúc loạt bài này bằng cái quyền chọn lựa, trước mình khi ăn Tết và chúc nhau an khang thịnh vượng.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa và xin hẹn quý thính giả kỳ sau.